Thuật ngữ Vùng văn hóa Á Đông

Trung Quốc từ lâu đã được coi là một trong những nền văn minh lớn nhất thế giới. Sự hình thành nền văn hóa của người Hán tại sông Hoàng Hà vẫn thường được coi là điểm khởi đầu của thế giới Đông Á. Ngày nay, tổng dân số của khu vực này lên tới khoảng gần hai tỉ người.

Nhà sử học người Nhật Nishijima Sadao (西嶋定生, 1919-1998), giáo sư danh dự tại Đại học Tokyo, ban đầu đã đặt ra thuật ngữ Đông Á văn hóa quyển (東亜文化圏, Tōa bunka-ken). Ông quan niệm về một văn hóa quyển của Trung Quốc và các nước Đông Á khác với phương Tây. Theo Nishijima, khu vực này cùng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và có cùng cấu trúc chính trị - xã hội. Khu vực này bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Bán đảo Triều Tiên, Việt Nam, kéo dài tới những vùng đất giữa Mông Cổ và dãy Himalaya.

Từ nguyên

Đôi khi được sử dụng như một từ đồng nghĩa với phạm vi văn hóa Đông Á, thuật ngữ này bắt nguồn từ từ "Hán", tức Trung Hoa hay Trung Quốc, và "quyển", theo nghĩa đen là phạm vi ảnh hưởng, tức là khu vực chịu ảnh hưởng của một quốc gia.

Là từ ghép của nhau, các ngôn ngữ "CJKV" - Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam - dịch thuật ngữ tiếng Anh là:

Tiếng Trung: quān (圈)

Tiếng Nhật: ken (圏 け ん)

Tiếng Hàn: gwon (권 từ 圏)

Tiếng Việt: quyển/khuyên từ ​​圏

Victor H. Mair đã thảo luận về nguồn gốc của các thuật ngữ "lĩnh vực văn hóa" này. Chữ 文化圈 (wénhuà quān) trong tiếng Trung có từ một bản dịch năm 1941 cho thuật ngữ tiếng Đức Kulturkreis, ('vòng tròn văn hóa, lĩnh vực'), mà các nhà dân tộc học người Áo là Fritz GraebnerWilhelm Schmidt đề xuất. Nhà sử học Nhật Bản Nishijima Sadao đã đặt ra các cụm từ 漢字 文化 圏 (Kanji bunka-ken, "lĩnh vực văn hóa chữ Hán") và 中華 文化 圏 (Chuka bunka-ken, "lĩnh vực văn hóa Trung Quốc"), mà sau này Trung Quốc đã mượn lại làm từ ngữ . Nishijima đã nghĩ ra những "lĩnh vực văn hóa" của người Hoa trong Thuyết về một thế giới Đông Á của ông (東 ア ジ ア 世界 論, Higashi Ajia sekai-ron).

Từ điển tiếng Trung-Anh cung cấp các bản dịch tương tự của cụm từ khóa 文化圈 là "giới trí thức hoặc văn học" (Liang Shiqiu, 1975) và "giới văn học, giáo dục" (Lâm Ngữ Đường, 1972).

Hán quyển có thể được coi là đồng nghĩa với Trung Quốc cổ đại và các nền văn minh hậu duệ của nó cũng như "các nền văn minh Viễn Đông" (Đại lục và Nhật Bản). Vào những năm 1930 trong Nghiên cứu Lịch sử, Trung quyển cùng với các nền văn minh phương Tây, Hồi giáo, Chính thống giáo phương Đông, Ấn Độ,... được trình bày như một trong những "đề tài nghiên cứu" chính.

So sánh với phương Tây

Nhà sử học người Anh Arnold J. Toynbee đã liệt kê nền văn minh Viễn Đông là một trong những nền văn minh chính được nêu trong cuốn sách của ông, A Study of History. Ông đưa Nhật Bản và Hàn Quốc vào định nghĩa của mình về "nền văn minh Viễn Đông" và đề xuất rằng họ phát triển từ "nền văn minh Trung Hoa" có nguồn gốc từ lưu vực sông Hoàng Hà. Toynbee đã so sánh mối quan hệ giữa nền văn minh Trung Hoa và Viễn Đông với mối quan hệ của nền văn minh Hy Lạp và phương Tây, vốn có "mối liên hệ rõ ràng".

Nhà sử học và Hán học người Mỹ Edwin O. Reischauer cũng nhóm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam vào một khu vực văn hóa mà ông gọi là thế giới Trung Hoa, một nhóm các quốc gia tập trung chia sẻ triết lý đạo đức Nho giáo. Reischauer nói rằng nền văn hóa này có nguồn gốc từ miền Bắc Trung Quốc, so sánh mối quan hệ giữa miền Bắc Trung Quốc và Đông Á với mối quan hệ của nền văn minh Hy Lạp-La Mã và châu Âu. Các tầng lớp tinh hoa của Đông Á được gắn kết với nhau thông qua một ngôn ngữ viết chung dựa trên các ký tự Trung Quốc, giống như cách mà tiếng Latinh đã hoạt động ở châu Âu.

Nhà khoa học chính trị người Mỹ Samuel P. Huntington đã coi thế giới Sinic là một trong nhiều nền văn minh trong cuốn sách Cuộc đụng độ của các nền văn minh. Ông lưu ý rằng "tất cả các học giả đều công nhận sự tồn tại của một nền văn minh Trung Quốc riêng biệt duy nhất có niên đại ít nhất là 1500 năm trước Công nguyên và có lẽ là một nghìn năm trước đó, hoặc của hai nền văn minh Trung Quốc kế tục nền văn minh kia vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Cơ đốc giáo." Nền văn minh Trung Hoa của Huntington bao gồm Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, Mông Cổ, Việt Nam và các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á. Trong số nhiều nền văn minh mà Huntington thảo luận, thế giới Trung Hoa là thế giới duy nhất dựa trên bản sắc văn hóa chứ không phải tôn giáo. Lý thuyết của Huntington là trong một thế giới sau Chiến tranh Lạnh, nhân loại đã "đồng nhất" với các nhóm văn hóa: bộ lạc, dân tộc, cộng đồng tôn giáo ở cấp độ rộng nhất là các nền văn minh." Tuy nhiên, Huntington lại coi là Nhật Bản như là một nền văn minh khác riêng biệt do nằm ở quần đảo (nhưng đấy chỉ nằm trong ý kiến thiểu số).